CHÂN DUNG BA VỊ NỮ VƯƠNG CỦA HÀN QUỐC TRONG LỊCH SỬ (Phần 2)
Đăng ngày:
2. JIN DEOK YEO WANG (CHÂN ĐỨC NỮ VƯƠNG) Chân Đức vương (?-654), là vị vua thứ 28 của Tân La và là vị nữ vương thứ 2, sau Thiện Đức vương, họ Kim, tên là Seung Man (Thắng Mạn). Bà là con gái của Kuk Ban Kil Mun Wang (Quốc Phạn Cát Văn vương), em trai Chân Bình vương và phu nhân Wol Myoung (Nguyệt Minh). Bà lên ngôi năm 647, sau khi Thiện Đức vương qua đời trong lúc dẹp loạn Bi Dam (Bì Đàm). Theo truyền thuyết, Chân Đức vương là người có vóc dáng tròn trịa, khuôn mặt xinh đẹp, thân cao bảy tấc, tay dài tới gối, được ví như Bồ Tát. Theo Tam quốc di sự, bà là người rất mực thông minh, vừa lên ngôi, đã tự mình viết Bài ca Thái Bình ca ngợi sự thái bình, thịnh vượng của nhà Đường, rồi dệt lụa, cử sứ thần sang dâng lên vua nhà Đường. Hoàng đế nhà Đường ban thưởng và phong cho Chân Đức Nữ Vương là Kê Lâm[1] Quốc Vương Sau khi lên ngôi, bà đã dẹp yên loạn Bì Đàm, đem lại sự bình yên cho đất nước, tiếp tục thực thi chính sách ngoại giao thân thiện với nhà Đường do người tiền nhiệm thiết lập. Để củng cố mối quan hệ mật thiết với nhà Đường, bà đã thi hành chính sách ngoại giao con tin và sự thành công của chính sách đó được thể hiện ở việc Đường Thái Tông đồng ý cử viện binh khi Tân La bị Bách Tế và Cao Cú Lệ tấn công. Với sự trợ giúp của tướng quân Kim Chun Chu (Kim Xuân Thu)[2], bà đã tiến hành cuộc cải cách lớn, có thể coi đó là chính sách Hán hóa với việc mô phỏng nền văn hóa, chế độ chính trị của nhà Đường. Năm 649, thay đổi y phục của quan lại theo nhà Đường. Năm 650, bỏ niên hiệu đất nước là Tae Hwa (Thái Hòa), sử dụng niên hiệu Young Hui (Vĩnh Huy) của Đường Cao Tông. Chân Đức nữ vương là người quyết liệt thực hiện cuộc cải cách chính trị quan trọng nhằm củng cố và nâng cao vương quyền. Năm 651, ban hành Jo Rye (Quy chế tổ chức lễ mừng các quan trong triều đình); thay đổi Poom Joo (ngân khố và các việc cơ mật của triều đình) thành Ban chấp sự, ra chiếu thăng quan cho Pa Chin Chan (Ba Trân San) làm Trung thị, cai quản Ban chấp sự và đảm trách các sự vụ cơ mật của triều đình; lập Tả lý phương phủ để quản lý, điều hành hệ thống luật pháp nhà nước. Trong thời gian trị vì, về đối ngoại, với chính sách ngoại giao khéo léo, bà đã nhận được sự viện trợ quân sự rất lớn từ nhà Đường, còn về đối nội, qua cuộc cải tổ chính trị, vương quyền ngày càng được củng cố, sức mạnh quân sự gia tăng. Đó là nền tảng cho việc thống nhất Tam quốc sau này. 3. JIN SEONG YEO WANG (CHÂN THÁNH NỮ VƯƠNG) Chân Thánh nữ vương (?-897), là vị vua thứ 51 của Tân La, họ Kim, tên là Man (Vạn). Bà là con gái của Kyoung Mun Wang (Cảnh Văn vương) và hoàng hậu Mun Wui (Văn Ý), là em gái của Heon Kang Wang (Hiến Khang vương) và Jeong Kang Wang (Chính Khang vương). Bà lên ngôi sau khi hai hoàng huynh lần lượt qua đời mà không có con kế vị và bà cũng là vị nữ vương cuối cùng của Tân La. Chân Thánh nữ vương lên ngôi trong lúc tình hình chính trị, xã hội Tân La bắt đầu rơi vào tình trạng hỗn loạn, các quan lại trong triều chia bè kết phái, tranh giành quyền triều chính. Ngay sau khi lên ngôi, bà nỗ lực thực thi các chính sách an dân như xá tội cho tù nhân, giảm tô thuế. Nhưng, năm 888, năm thứ hai Chân Thánh nữ vương trị vì, Giác can Wui Hwang (Ngụy Hoằng)[3] qua đời, quan lại thuộc các thế lực đối lập trong triều liên kết với các quan lại ở các châu quận bắt đầu chống lại chính quyền trung ương. Trong khi đó, nữ vương chỉ mải mê chuyện ăn chơi dâm loạn, thậm chí còn hối lộ để đưa các nam nhi khỏe mạnh, đẹp trai vào tận cung cấm vui chơi, không màng đến việc triều chính. Mọi việc quốc gia đại sự các quan lại tranh nhau nắm giữ, nạn tham ô, buôn quan bán chức hoành hành, quốc khố trống rỗng, lại đốc thúc các hào tộc địa phương nộp tô thuế, nạn trộm cắp nổi lên như ong, bách tính lầm than. Các hào tộc địa phương đua nhau mở rộng thanh thế, phô trương sức mạnh quân sự, Kyeon Hwon và Goong Ye lập quốc gia tự trị, mở ra thời kỳ Hậu tam quốc. Trước tình hình đó, tháng 6 năm 897, Chân Thánh nữ vương thoái vị, nhường ngôi cho hoàng tử, con của Hiến Khang vương. Phan Thị Oanh Tài liệu tham khảo: - Tam quốc di sự - Tam quốc sử ký - http://encykorea.aks.ac.kr/Contents/Index?contents_id=E0054630 http://www.subkorea.com/education/history/hist/shin/28.htm [1] Kê Lâm là tên gọi khác của Tân La thời cổ. [2] Kim Xuân Thu chính là người được Chân Đức vương cử làm sứ thần sang nhà Đường xin viện binh khi Tân La bị Bách Tế tấn công năm 648 và là vị vua kế nhiệm ngai vàng từ Chân Đức nữ vương. [3] Trong Tam quốc di sự, người này là chồng của nhũ mẫu của Chân Thánh nữ vương, còn trong Tam quốc sử ký người này lại là một viên quan lớn trong triều, có quan hệ và có con riêng với nữ vương. [4] Trong Tam quốc di sự, người này là chồng của nhũ mẫu của Chân Thánh nữ vương, còn trong Tam quốc sử ký người này lại là một viên quan lớn trong triều, có quan hệ và có con riêng với nữ vương.