VÀI NÉT VỀ TRIỂN VỌNG CỦA KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀN QUỐC
Đăng ngày:
Để một quốc gia đang phát triển tránh được sự lệ thuộc công nghệ nước ngoài thì việc chuyển giao công nghệ phải được quản lý một cách thành công. Tuy nhiên, những điều kiện cho việc chuyển giao công nghệ thành công như vậy rất khó do có nhiều bối cảnh, tình huống không thuận lợi kể cả sự thiếu thiện chí về phía các công ty nước ngoài. Cơ sở hạ tầng công nghệ trong nước của một quốc gia là bước quan trọng nhất trong sự chuẩn bị thích hợp cho việc chuyển giao công nghệ thuận lợi giữa các quốc gia đang phát triển và các quốc gia tiên tiến về công nghệ. Những nỗ lực nhiệt tình và thành công để phát triển tiềm năng công nghệ trong nước của các quốc gia có nền kinh tế đang phát triển, ngay cả những sự chuẩn bị có mục đích tốt cho việc chuyển giao công nghệ đều dường như không mấy hiệu quả trong thời gian dài. Tuy nhiên, với cơ sở hạ tầng như vậy, nước đang phát triển có thể giành được ngày càng nhiều các thoả thuận có lợi với các công ty nước ngoài.
Kinh nghiệm của Hàn Quốc trong lĩnh vực này, thứ nhất là một quốc gia phải phát triển được tiềm năng công nghệ trong nước để giành ảnh hưởng trong việc dàn xếp sự chuyển giao công nghệ có lợi; thứ hai, Chính phủ phải đóng vai trò tích cực trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng về KH & CN và trong hợp tác quốc tế về KH & CN. Cuối cùng, một lực lượng lao động được đào tạo và một môi trường chính trị ổn định là điều cần thiết cho quá trình phát triển tiềm lực công nghệ trong nước và hợp tác quốc tế về KH & CN.
Với sự phấn đấu tăng cường tiềm lực công nghệ trong nước, các công ty Hàn Quốc giờ đây đang có điều kiện giành được ảnh hưởng đối với các công nghệ trong nước để có sự sắp xếp chiến lược hơn về chuyển giao công nghệ. Thành công là kết quả của những nỗ lực của Chính phủ trong việc phát triển nền tảng, cơ sở công nghệ cho Hàn Quốc và những nỗ lực về hợp tác trong khu vực tư nhân.
Hậu quả để lại của cuộc khủng hoảng kinh tế Hàn Quốc trong hai năm 1997 - 1998 là môi trường đầu tư ở tình trạng tồi tệ. Tuy nhiên, những nỗ lực mạnh mẽ của Chính phủ và khu vực tư nhân nhằm thu hút hơn nữa vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và chuyển giao công nghệ cùng với quá trình toàn cầu hoá .... đã đem lại nhiều kết quả tích cực. Mặc dù vẫn còn những rào cản đối với việc đầu tư liên quan đến công nghệ và liên doanh nước ngoài, các biện pháp đề ra gần đây trong cả khu vực tư nhân lẫn khu vực nhà nước nhằm thúc đẩy đầu tư nước ngoài dự kiến sẽ thu hút ngày càng nhiều sự hợp tác từ các đối tác nước ngoài dưới nhiều hình thức; ví dụ như vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, M&A, nghiên cứu và phát triển chung, v.v... Nhận thức đầy đủ tầm quan trọng ngày càng tăng của sự hợp tác quốc tế về KH & CN, Chính phủ Hàn Quốc đã tích cực tập trung vào hợp tác song phương và đa phương với các chính phủ nước ngoài cũng như với các tổ chức quốc tế.
Giờ đây, Hàn Quốc đang cần một chiến lược cạnh tranh mới để hướng sự điều chỉnh kinh tế theo hướng cơ cấu công nghiệp tinh vi hơn. Chiến lược mới có thể dựa vào công nghệ và sự cải tiến. Chiến lược này phải thúc đẩy lợi thế cạnh tranh dựa trên sự khác biệt về chất lượng sản phẩm nhằm thay thế những lợi thế dựa trên chi phí đầu vào của nền sản xuất ở Hàn Quốc trước đây.
Nhiều cản trở và các vấn đề nảy sinh gây khó khăn cho việc đầu tư liên quan đến công nghệ và liên doanh với nước ngoài cần phải được giải quyết. Tuy nhiên, những nỗ lực gần đây của Chính phủ như việc thông qua Luật đầu tư nước ngoài cũng như những công việc của các tổ chức tư nhân và nhà nước nhằm cải tổ nền kinh tế và cải thiện môi trường đầu tư, khuyến khích ngày càng nhiều sự tham gia của các đối tác nước ngoài. Tuyên bố gần đây của Chính phủ Hàn Quốc về việc thông qua Chương trình quốc gia cho thế kỷ 21 và Kế hoạch xây dựng quốc gia tri thức đã đưa ra đúng lúc. cùng với việc cơ cấu lại khu vực hợp tác và khu vực tài chính, sự thúc đẩy như vậy sẽ ảnh hưởng tích cực đến sự hợp tác quốc tế về KH & CN của Hàn Quốc trong những năm sắp tới.
Tài liệu tham khảo chính
1. Korean Industrial Technology Assiciation, Major Indicators of Industrial Technology, Recent issues
2. Ministry of Finance and Economy (MOFE), R.O.K., Trends in International Investement and Technology Inducemet, Sept, 1998
3. Ministry of Science and Technology (MOST), R.O.K., Science and Technology Annual, Various years
4. Long - Term Development Plan for 2010 Science and Technology, 1994
5. World Bank, World Development Indicators 1998.
Tác giả: Thanh Mai
Biên tập: Nhóm website (Đầu đề do chúng tôi đặt)