VỀ TIẾN TRÌNH CẢI CÁCH KINH TẾ CỦA CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN TRIỀU TIÊN (Phần 1)
Đăng ngày:
1. Bối cảnh thúc đẩy cải cách: Khủng hoảng kinh tế - Hậu quả tất yếu từ mô hình phát triển Từ thực tiễn ở CHDCNDTT cho thấy, kết thúc kế hoạch 7 năm lần thứ ba 1987-1993 cũng là giai đoạn mở đầu cho một thời kỳ tồi tệ nhất trong lịch sử phát triển của nền kinh tế nước này. Thực ra, ngay từ đầu những năm 1980, kinh tế CHDCNDTT đã bắt đầu bộc lộ những triệu chứng kinh điển về những rối loạn trong một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Sự khan hiếm, thiếu hụt hay kém hiệu quả được chứng kiến có ở khắp mọi nơi. Nguyên vật liệu phục vụ sản xuất thì không được cung cấp đầy đủ và trong tình trạng cạn kiệt. Điều này cũng tương tự như trong lĩnh vực cung cấp năng lượng. Đặc biệt là sự thiếu hụt ngoại tệ mạnh do kết quả nghèo nàn trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Hạ tầng cơ sở kinh tế bị xuống cấp và các máy móc, thiết bị được nhập khẩu trong những thập kỷ trước đó đã trở nên bị lạc hậu. Không giống như các nước xã hội chủ nghĩa khác ở Đông Âu, chính phủ CHDCNDTT vẫn duy trì một mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao độ và đã từ chối nới lỏng trong quản lý kinh tế từ cấp trung ương. Kết quả là nền kinh tế đã rơi vào sự đình đốn ngày càng gia tăng. Đến giữa những năm 1990, CHDCNDTT chứng kiến từ hiện tượng đình đốn sang sự khủng hoảng thực sự trong nền kinh tế. Có rất nhiều lý do khác nhau giải thích cho kết quả này. Tuy nhiên, tựu trung, có hai lý do chính sau đây: - Trước hết, điều không thể không nhắc tới là những trợ giúp truyền thống đột ngột bị cắt bỏ. Những sự trợ giúp kinh tế mà nước này nhận được từ Liên Xô cũ và Trung Quốc vốn được thừa nhận là một nhân tố quan trọng giúp cho sự tăng trưởng kinh tế của CHDCNDTT trong suốt một thời gian dài. Đến thời điểm này đã có sự thay đổi căn bản. Vào năm 1991, Liên Xô cũ đã tuyên bố rút lại toàn bộ sự trợ giúp trước đây và yêu cầu giải quyết trao đổi thanh toán giữa hai nước bằng ngoại tệ mạnh, đặc biệt là việc CHDCNDTT nhập khẩu hàng hoá của Liên Xô. Tương tự, Trung Quốc đã từng bước thu hẹp sự trợ giúp kinh tế. Nhiều nguồn thông tin cho hay, Bắc Kinh mặc dù vẫn cung cấp lương thực, xăng dầu nhưng cũng yêu cầu thanh toán theo giá cả thị trường. Đến năm 1994, Trung Quốc đã giảm hẳn việc xuất khẩu của mình tới CHDCNDTT. - Thứ hai, đã có nhiều ý kiến thống nhất cho rằng, do chính hệ thống kinh tế và chính trị cứng nhắc của CHDCND Triều Tiên đã đưa đất nước này vào một tình trạng ốm yếu và tách biệt với một thế giới đang đổi thay. Hay nói một cách khác là sự khủng hoảng mô hình phát triển. Vì vậy, ngay từ năm 1990, nền kinh tế nước này đã bị xói mòn nghiêm trọng và sản lượng các ngành cũng đã bắt đầu sụt giảm. Cụ thể hơn, có thể thấy việc sản xuất sản phẩm phân bón, thuốc trừ sâu, điện cho thuỷ lợi đã bị thiếu hụt nghiêm trọng bởi các tác động dây truyền trong ngành công nghiệp. Điều đó cũng có nghĩa là sản lượng nông nghiệp đã bắt đầu giảm sút. Thậm chí, sự giảm sút này đã xẩy ra trước khi có một loạt các thảm hoạ thiên nhiên như hạn hán, lụt lội liên tiếp ập đến đất nước này vào giữa những năm 1990. Bức tranh kinh tế vĩ mô của CHDCNDTT mang sắc màu ảm đạm có thể được tham chiếu qua các chỉ số thống kê dưới đây. Thu nhập quốc dân và thu nhập theo đầu người của CHDCNDTT Giai đoạn 1965-2002 Năm 1965 1970 1975 1980 1985 1986 1987 1988 1989 1990 1991 GNP 2,3 4,0 9,4 13,5 15,5 17,4 19.4 20,1 21,1 23,2 22,9 GNP/đầu người 162 230 415 758 765 860 938 980 987 1146 1115 Mức tăng GNP - - - - 2,7 2,1 3,3 3,0 2,4 - -3,5 Năm 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 GNP 21,1 20,2 21,2 22,3 21,4 17,7 12,6 15,8 16,8 15,7 17,0 GNP/đầu người 1013 969 992 1034 989 811 573 714 757 706 762 Mức tăng GNP -6,0 -4,2 - - -3,6 -6,3 -1,1 6,2 1,3 - 1,2 Nguồn: Số liệu thống kê của Viện phát triển Hàn Quốc năm 1996 (KDI) và Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc năm 2003 (BOK) Chú thích: Đơn vị tính GNP theo tỷ USD; Mức tăng GNP theo %; GNP theo đầu người tính bằng USD. Các số liệu trước đó tới năm 1990 được tính toán theo thống kê của Bộ Thống nhất Hàn Quốc; và trong giai đoạn từ 1990 tới 2002 là của Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc. Bảng thống kê trên biểu thị những chỉ số về sự thay đổi của tổng thu nhập quốc dân (GNP), thu nhập bình quân theo đầu người và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế CHDCNDTT. Điều lưu ý là nền kinh tế nước này bắt đầu rơi vào mức tăng trưởng âm từ năm 1990, và suốt trong suốt giai đoạn từ 1990 tới 1993, hầu như bình quân mỗi năm nền kinh tế bị thu nhỏ lại 4%. Vào giữa những năm 1990, CHDCNDTT lại phải gánh chịu một loạt thảm hoạ thiên nhiên như mưa đá xẩy ra năm 1994, lũ lụt nghiêm trọng xẩy ra trong hai năm liền 1995 và 1996; hạn hán năm 1997. Các thảm hoạ thiên nhiên tàn khốc đó đã huỷ hoại nghiêm trọng ngành nông nghiệp của đất nước này. Vì vậy, nền kinh tế của CHDCNDTT đã tiếp tục sụt giảm với tốc độ vào khoảng 3% năm suốt giai đoạn 1994-1998. Hơn thế nữa, cũng theo dõi từ các số liệu trên, con số tuyệt đối và tương đối về tổng GNP của CHDCNDTT cũng đã giảm xấp xỉ 35% từ 23,2 tỷ USD năm 1990 xuống còn 12,6 tỷ USD năm 1998 [1]. Thu nhập bình quân theo đầu người cũng giảm 50% từ 1.146 USD xuống còn 573 USD trong cùng giai đoạn này. Như vậy, nền kinh tế CHDCNDTT thực sự rơi vào một thời kỳ khó khăn nhất trong lịch sử phát triển của mình kể từ khì đất nước này được độc lập vào năm 1945. Và chính lẽ đó buộc họ phải tìm đến sự cải cách như một phương thuốc mới có thể giúp nền kinh tế nước này vượt qua khó khăn. 2. Cải cách kinh tế từ sau năm 2001 dưới thời Kim Jong- Il (Kim Chính Nhật) Có một thực tế là CHDCNDTT đã không loan báo một cách chính thức các cuộc cải cách kinh tế và đi kèm với những cải cách này thì cũng không có bất kỳ một nội dung cải cách hành chính nào khác. Chính vì thế, đã có nhiều ý kiến cho rằng, có thể sẽ không thoả đáng khi so sánh những cải cách kinh tế ở CHDCNDTT với công cuộc cải cách và sự mở cửa nền kinh tế của Trung Quốc hay Việt Nam theo đuổi, bởi tính không đồng bộ trong những nỗ lực hướng tới cải cách ở đây. Tuy nhiên, khi xem xét từ góc độ quản lý kinh tế vĩ mô, người ta cũng đã sớm nhận diện một số thay đổi trong tư duy chỉ đạo hay đường lối điều hành nền kinh tế của các nhà lãnh đạo CHDCNDTT, dù rằng không thật sự rõ ràng và mạnh bạo. Dẫu sao đó cũng là một lối tư duy kinh tế mới trong bối cảnh nền kinh tế rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng. CHDCNDTT cho rằng hạt nhân cải cách nằm ngay trong tư tưởng của chủ thuyết “tư duy mới” của Kim Chính Nhật. Chủ thuyết “tư duy mới”[2] ra đời vào tháng 1 năm 2001 kêu gọi những thay đổi trong quản lý nhà nước đối với nền kinh tế bằng việc khuyến khích có những thay đổi trong tư duy và hành vi trên toàn xã hội. Trong khi loại bỏ đi các phương pháp cải cách thông dụng, Kim Chính Nhật thúc giục cần có những cuộc cải cách, trong đó, sự tiếp cận vấn đề phải theo các góc độ mới của riêng họ. Quan điểm mới chính là vận dụng các nội dung của chủ thuyết ‘‘Tư duy mới’’ do chính ông ta khởi xướng, bao gồm : lý thuyết hạt giống, lý thuyết tự lực tự cường kiểu mới, và lý thuyết nền kinh tế cất cánh. Theo người dân CHDCNDTT, những tư duy mới của Kim Chính Nhật đã cũng cấp một cơ sở lý luận và nền tảng chính trị cho “nội dung cải cách kinh tế tháng 7 năm 2002”. Những chỉ dẫn tư tưởng này quy định rằng nguyên tắc cơ bản của cải cách kinh tế là phải đạt tới tối đa hoá lợi nhuận trong khi vẫn duy trì các nguyên tắc xã hội chủ nghĩa cổ điển. Đồng thời, quan điểm chỉ đạo này cũng nói lên những biện pháp cải cách cần thực hiện là phi tập trung hoá kế hoạch, vận hành “thị trường trao đổi hàng hoá xã hội chủ nghĩa”, đánh giá công ty dựa theo lợi nhuận, phân phối dựa theo kết quả làm việc, liên kết khoa học và công nghệ với sản xuất, tái điều chỉnh giá cả và tiền lương, tái cấu trúc lại hệ thống phúc lợi xã hội đang bị teo lại. Sau khi chấp nhận lối “tư duy mới” về quản lý kinh tế lần đầu tiên vào tháng 1 năm 2001, giới lãnh đạo nước này tiếp tục đề xuất ý tưởng về “các nguyên tắc nâng cao năng lực quản lý kinh tế” (tháng 10 năm 2001) nhằm dọn đường cho những thay đổi lớn hơn trong điều hành quản lý kinh tế của mình. Kết quả là CHDCNDTT đã bắt đầu đề xuất thực thi các biện pháp nêu trên vào tháng 7 năm 2002, đồng thời, ban hành và sửa đổi các nghị định có liên quan tới những nội dung cải cách kinh tế. Tháng 9 năm 2002, CHDCNDTT đã công bố “nguyên tắc chỉ đạo cho việc xây dựng một nền kinh tế trong một thời đại quốc phòng là ưu tiên số 1” và được xem như là một chính sách kinh tế mới. Tư tưởng của chính sách này vẫn dành sự ưu tiên hàng đầu cho ngành công nghiệp quốc phòng và chú ý phát triển đồng thời công nghiệp nhẹ và nông nghiệp. Tuy nhiên, cũng đã xuất hiện một động thái cải cách phi kinh tế khiến nhiều nhà nghiên cứu chính trị về CHDCNDTT phải quan tâm. Năm 2003, CHDCNDTT đã giảm số lượng quan chức thuộc đội ngũ gián tiếp sản xuất trong nội bộ Đảng công nhân Triều Tiên cũng như là trong bộ máy chính phủ, trong khi lại đề cử những nhà kỹ thuật đang nổi lên nhằm thực hiện việc chuyển giao thế hệ. Năm 2004, chính phủ đã củng cố cơ quan quản lý kinh tế thuộc nội các và trao quyền cho nó dẫn dắt các nỗ lực cải cách kinh tế. Đồng thời, họ cũng đã chọn giải pháp giảm bớt sự can thiệp của Đảng công nhân cầm quyền và quân đội vào nền kinh tế. Như vậy, cần phải thừa nhận rằng những thay đổi chính sách là điều không thể tránh khỏi nhằm giải quyết những khó khăn kinh tế của nước này trong suốt thập kỷ 1990 của thế kỷ XX để lại. Chính vì vậy, bắt đầu bằng những thay đổi mang tính tư tưởng chỉ đạo về đường lối, CHDCNDTT đã và đang thực thi một cách khó khăn các biện pháp để nâng cao hiệu quả trong các nội dung cải cách kinh tế của mình. Điều đáng lưu ý, là nếu xuất phát từ góc độ nghiên cứu tổng quát những nội dung chủ yếu trong tiến trình cải cách kinh tế ngày 1 tháng 7 năm 2002, nhiều người cho rằng CHDCNDTT dường như mới đang làm quen và lần mò thử nghiệm việc sử dụng cơ chế thị trường trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cứng nhắc của mình. Nó được thể hiện rất rõ trong các biện pháp cải cách đề ra. Biện pháp cải cách đầu tiên bao gồm quyết định tăng giá lên 25 lần đối với hầu hết các mặt hàng thiết yếu. Đi cùng với quyết định này là tăng tiền lương lên 18 lần đối với cán bộ, công chức và quân đội hưởng lương và phá giá đồng nội tệ 70 lần. Chính phủ cũng trao quyền nhằm gia tăng tính tự chủ trong quản lý ở một số doanh nghiệp. Tăng cường hệ thống chất lượng đối với quản lý nông nghiệp và từng bước loại bỏ hệ thống phân phối lương thực theo kiểu bao cấp truyền thống, v.v.. Đến tháng 3 năm 2003, CHDCNDTT đã có những biện pháp đi xa hơn trong những nội dung cải cách kinh tế bằng việc tái cấu trúc lại các thị trường nông phẩm không chính thức thành các thị trường chung, chuyển một số quyền quản lý các cửa hàng thương nghiệp do nhà nước điều hành sang các tổ chức và các doanh nghiệp khác nhau, và bắt đầu tiến hành những hình thức cải cách thương mại như giao phó ngành dịch vụ cho tư nhân đảm trách (ví dụ như quán ăn, cafe internet). Từ tháng 1 năm 2004, một hệ thống quản lý nông nghiệp dựa trên những đơn vị gia đình đã được đưa ra áp dụng trên cơ sở thử nghiệm trong khu vực nông nghiệp. Trong khi đó, cải cách doanh nghiệp cũng đang tiếp tục được áp dụng ở khu vực công nghiệp. Không dừng lại ở những biện pháp cải cách bên trong nền kinh tế, trong khoảng nửa cuối năm 2002, CHDCNDTT cũng đã cho thấy mong muốn thể hiện ý tưởng mở cửa nền kinh tế của mình rộng hơn với khu vực và thế giới bên ngoài bằng việc ký quyết định cho phép xây dựng Khu vực hành chính đặc biệt Shineuiju vào tháng 9 năm 2002. Việc mở của này được chính phủ suy tính như một cứu cánh tìm động lực thu hút FDI để vực dậy nền kinh tế khép kín và ốm yếu. Sau đó một tháng, tháng 10 năm 2002, Khu du lịch núi Kim Cương (Geumgang) ra đời, và Khu công viên công nghiệp Gaesong cũng chính thức được khởi công vào tháng 11 cùng năm. Tuy nhiên, đánh giá kết quả về những quyết định nêu trên cho đến này vẫn tiếp tục được người ta xem xét trên nhiều góc độ khác nhau. Thực ra, nó chưa có những đánh giá hay kết luận thống nhất trong giới nghiên cứu về sự thành công hay thất bại, bởi thực tế trong những diễn biến của tình hình kinh tế và chính trị ở CHDCNDTT luôn có những thay đổi bất ngờ. Dẫu sao chăng nữa, có thể nói rằng, sau thời kỳ khủng hoảng tạm lắng, bằng việc thực thi những liệu pháp cải cách kinh tế như trên, CHDCNDTT đã cải thiện được năng suất trong những ngành sử dụng nhiều lao động như là nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, trong khi đó, họ cũng được chứng kiến sự náo hoạt chưa từng có trong các giao dịch thương mại do bị kìm nén bấy lâu. Tuy nhiên, các ảnh hưởng nhiều chiều khác nhau đã xuất hiện bao gồm hiện tượng gia tăng lạm phát phi mã có hệ quả từ việc khan hiếm hàng hoá trầm trọng. Bên cạnh đó cũng là sự biến động tỷ giá quá lớn giữa đồng nội tệ với các ngoại tệ mạnh khác theo khuynh hướng bất lợi cho dự trữ ngân khố quốc gia. Trong lĩnh vực xã hội, những khía cạnh nào đó của chủ nghĩa tư bản đã bộc lộ bao gồm việc mở rộng không ngừng khoảng cách giữa giàu và nghèo. Đó là một thực tế không thể bàn cãi ở CHDCNDTT trong thời gian qua. PGS.TS. Phạm Quí Long Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] UNDP (2001) mô tả một bức tranh thậm trí còn ảm đạm hơn nhiều cho nền kinh tế CHDCND Triều Tiên trong những năm 1990. UNDP đã ước tính rằng GDP đã giảm sút 50% từ giai đoạn 1992 tới 1998, chỉ còn hơn 10 tỷ USD. Việc ước đoán GDP của CHDCND Triều Tiên có rất nhiều khó khăn. Ví dụ, các bước trong kế toán của CHDCND Triều Tiên sử dụng tổng sản phẩm xã hội và nó được định nghĩa như là toàn bộ giá trị bằng tiền của hàng hoá được sản xuất nhưng các dịch vụ thì không được tính tới. Hơn nữa, không có các thống kê chính thức về các sản phẩm xã hội cũng như dịch vụ. Một vấn đề phát sinh nữa từ tỷ giá trao đổi với đồng USD. Do đó, các biên độ sai số trongnhững ước tính này có thể là khá lớn. [2] Chủ thuyết Tư duy mới do Kim Chính Nhật đề xuớng bao gồm 3 lý thuyết mới: (1) Lý thuyết hạt giống: khuyến khích việc phát triển các giống cây trồng, vật nuôI và sản phảm ngành,.. mà chúng có thể mang lại thành quả trong một thời gian ngắn ở mỗi cánh đồng và ngành công nghiệp (IT); (2) Lý thuyết tự lực tự cuờng mới: TáI nhắc lại các quan hệ hợp tác với các nước khác như là một sự tự lực tập thể mới và áp dụng khoa học và công nghệ như là một sự tự lực sáng tạo; (3) Lý thuyết cất cánh kinh tế: Tầm quan trọng đạt vào khoa học và công nghệ, phát triển kinh tế đạt được trong một giai đoạn ngắn thông qua việc tập trung phát triển khu vực công nghệ thông tin (IT)