BAN HÀNH LUẬT LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI CƠ BẢN
Đăng ngày:
Theo một cuộc điều tra thống kê điều kiện việc làm của Hàn Quốc tháng 6 năm 2012, sự tham gia hoạt động kinh tế và tỷ lệ việc làm của người nước ngoài ở Hàn Quốc cao hơn so với người dân bản địa, song, cũng đồng nghĩa là tỷ lệ thất nghiệp của họ. Mặc dù các số liệu khác về lao động nước ngoài đã có nhưng độ tin cậy của nó là cả vấn đề. Cuộc điều tra của cơ quan hoạt động hình thức nhà nước được phát hành vào ngày 23 tháng 11 làm sáng tỏ một cách có hệ thống về sự tham gia thị trường lao động của những người nhập cư tái định cư, bao gồm cả những người thường trú, người Hàn Quốc với quốc tịch nước ngoài nắm giữ thị thực cư trú ở Hàn Quốc, những người nhập cư kết hôn và những cư dân có trình độ khác. Cuộc điều tra này cho thấy, Hàn Quốc đã có 1.114.000 người nước ngoài cư trú trên 15 tuổi và 791.000 người trong số họ nằm trong số 25,117 triệu người lao động của nước này, hay chiếm 3,2% của toàn bộ lực lượng lao động. Việc làm được định nghĩa là làm việc nhiều hơn một giờ mỗi tuần để sản xuất hàng hoá, dịch vụ và kiếm thu nhập. Trong số người nước ngoài cư trú, tỷ lệ tham gia hoạt động kinh tế và tỷ lệ việc làm đứng ở mức tương ứng 74% và 71%. Cả hai đều cao hơn khoảng 10 điểm phần trăm so với con số tổng thể của quốc gia. Điều này có nghĩa là người lao động nước ngoài đang giúp lấp đầy một khoảng trống trong thị trường lao động Hàn Quốc. Tỷ lệ tham gia hoạt động kinh tế khác nhau nhiều trong số những người nắm giữ thị thực: 99,9% lao động không chuyên nghiệp, 99,4% lao động chuyên nghiệp, 88,5% du khách đang làm việc, 68,9% dân thường trú, 64,5% Hàn kiều, 50,8% người nhập cư kết hôn và 51,1 % cư dân có trình độ khác. Mặt khác, tỷ lệ thất nghiệp của người nước ngoài là 4% so với tỷ lệ toàn quốc là 3,2%, sự xác nhận chính thức đầu tiên thất nghiệp cao hơn trong số những người nước ngoài. Trong cuộc điều tra này, 33.000 người nước ngoài cư trú được phân loại là thất nghiệp, 290.000 người được tính là phi hoạt động kinh tế. Đặc biệt, tỷ lệ thất nghiệp của phụ nữ nước ngoài lên tới 5,6%. Tỷ lệ tham gia hoạt động kinh tế của sinh viên quốc tế là 20,1%. Về nguyên tắc, sinh viên nước ngoài không được phép đi làm nhưng có thể nhận giấy phép lao động bị hạn chế từ Dịch vụ xuất nhập cảnh Hàn Quốc. Sinh viên quốc tế thường được tham gia vào các công việc bán thời gian ở các trường đại học, nhưng quy mô và ảnh hưởng của việc làm tạm thời như vậy vẫn chưa được đánh giá. Các số liệu việc làm sẽ cao hơn nếu không loại trừ hai nhóm khá lớn. Ước tính có khoảng 83.000 người nước ngoài đã vi phạm thị thực ngắn hạn của họ và ở lại Hàn Quốc bất hợp pháp. Một tỷ lệ lớn trong số họ có lẽ đang làm việc nhưng không được tính trong số liệu việc làm chính thức vì lao động không có giấy tờ. Ngoài ra, điều này đã được khẳng định thông qua cuộc điều tra cho lần đầu tiên mà có khoảng 89% du khách đang làm việc, chủ yếu là người Trung Quốc gốc Hàn Quốc, được tham gia vào các hoạt động kinh tế. Những người nhập quốc tịch Hàn Quốc cũng được loại trừ khỏi cuộc khảo sát này chỉ vì họ giữ quốc tịch Hàn Quốc. Theo số liệu năm 2012 về người nước ngoài cư trú tại chính quyền địa phương được Bộ An ninh và Hành chính Công biên soạn, tính đến ngày 01 tháng 1 năm 2012, số lượng người nước ngoài có được quốc tịch Hàn Quốc và đã có số đăng ký cư trú đạt 123.513 người. Điều đó là cần thiết để phân loại người nước ngoài và người nhập quốc tịch Hàn Quốc như những người nhập cư. Và những người nhập cư tham gia vào các hoạt động kinh tế nên được phân loại là lao động nhập cư. Hiện nay, chúng ta nên duy trì vấn đề lao động người nước ngoài bao lâu? Đó là thời điểm để đánh giá tác động của lao động người nước ngoài trên thị trường lao động địa phương và xã hội Hàn Quốc phản ánh một cách có hệ thống các kết quả trong quá trình hoạch định chính sách. Bộ Lao động và Việc làm hiện đang giám sát các hoạt động kinh tế của lao động nước ngoài không chuyên nghiệp thông qua Luật về việc làm của người lao động nước ngoài. Tuy nhiên, những người nước ngoài đã làm việc tại Hàn Quốc vẫn còn bị lãng quên nhiều vì chính phủ không có khuôn khổ pháp lý và mang tính hệ thống đối với việc giám sát tất cả các lao động nước ngoài tại Hàn Quốc. Vì vậy, chính phủ đã phải vội vàng ban hành cái gọi là “Luật cơ bản về người lao động nước ngoài ở Hàn Quốc”. Điều đó là cần thiết cho chính phủ để xây dựng một hệ thống toàn diện xử lý lao động nước ngoài. Trình độ kỹ năng và tình trạng lưu trú của tất cả các lao động nước ngoài cũng nên được biên soạn kỹ lưỡng. Để trở lại một hệ thống như vậy, các nguyên tắc cơ bản của chính sách lao động nước ngoài và quá trình thực hiện chính sách phải được quy định. Những nỗ lực này sẽ đánh dấu bước khởi đầu trong việc đạt được mục tiêu của chúng ta để tạo thêm nhiều cơ hội việc làm và nâng cao sự cư xử của các công dân nước ngoài được làm việc phù hợp với nhu cầu của thời đại chúng ta. Trần Thị Duyên Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á Nguồn: http://www.koreafocus.or.kr/design3/economy/view.asp?volume_id=130&content_id=104379&category=B