Xã hội
KHÁI NIỆM VÀ ĐIỀU KIỆN TIÊN QUYẾT ĐỂ TRỞ THÀNH MỘT NƯỚC TIÊN TIẾN (Phần 3)
③ Tính tự chủ: Hàn Quốc xếp thứ 26 – Khoảng cách xa so với mức trung bình của OECD về tính tự chủ và linh hoạt của nền kinh tế
Với 64,1 điểm Hàn Quốc tụt hậu so với mức trung bình của OECD là 75,9 trong tính tự chủ. Đây là chỉ số thấp nhất trong nhân tố liên quan tới tăng trưởng. Điểm số thấp ở tất cả các tiểu mục bao gồm: “cơ hội công bằng”, “học hỏi từ thất bại”, “tính chủ động”, “tự chủ trong hoạt động kinh tế” cũng như “đối thoại xã hội”, khả năng giải quyết các bất đồng. Theo kết quả, tất cả các hạng mục “động lực” của Hàn Quốc đều thấp hơn mức trung bình của OECD là 62,6 điểm, khiến Hàn Quốc xếp thứ 26.
KHÁI NIỆM VÀ ĐIỀU KIỆN TIÊN QUYẾT ĐỂ TRỞ THÀNH MỘT NƯỚC TIÊN TIẾN (Phần 2)
2. Thiết kế và đo lường các chỉ số tiên tiến của SERI
Các chỉ số về quốc gia tiên tiến gồm 4 nhóm: Đầu tiên, 7 nhân tố then chốt được chia làm 2, mỗi phần gồm 5 hạng mục được đo bằng 2 đến 5 biến. Mỗi phần trong 5 hạng mục bao gồm các đặc tính liên quan đến chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và ý chí quốc gia. Các biến được lấy từ số liệu thống kê, điều tra của các cơ quan nghiên cứu, tổ chức quốc tế hàng đầu thuộc 30 nước thành viên OECD.
THÁI ĐỘ CỦA NGƯỜI HÀN QUỐC VÀ NHỮNG QUY ĐỊNH MỚI ĐỐI VỚI GIA ĐÌNH ĐA VĂN HÓA
Theo một cuộc điều tra mới đây do Viện Nghiên cứu Chính sách Asan đặt tại Seoul công bố cho thấy, số người Hàn Quốc có thái độ tiêu cực đối với cuộc hôn nhân có đối tượng là người nước ngoài ngày càng gia tăng. Điều này có nghĩa là, người Hàn Quốc ngày càng trở nên không cởi mở với gia đình đa văn hóa.
KHÁI NIỆM VÀ ĐIỀU KIỆN TIÊN QUYẾT ĐỂ TRỞ THÀNH MỘT NƯỚC TIÊN TIẾN (Phần 1)
Đối với Hàn Quốc, điều quan trọng là vượt qua cách tiếp cận thông thường để trở thành quốc gia tiên tiến, tập trung vào “hệ thống của một quốc gia tiên tiến” và “thay đổi về lượng”. Chiến lược thu hẹp khoảng cách với các nước tiên tiến về lượng sẽ bị hạn chế do thúc đẩy các mong muốn chung chung. Sao chép hệ thống của các quốc gia tiên tiến có thể gặp khó khăn bởi hệ thống mới có thể xung đột với tập quán riêng và không có tính chất bổ sung. Do vậy, cần xây dựng một sự đồng thuận quốc gia, tăng cường sức mạnh quốc gia khi chính phủ bảo đảm với người dân rằng, họ có thể tận hưởng các giá trị đa nguyên thường thấy ở các nước tiên tiến như sự giàu có, sự thoải mái, sự văn minh và hạnh phúc.
SO SÁNH MỘT SỐ THÔNG TIN VỀ GIÁO DỤC CỦA HÀN QUỐC VỚI CÁC QUỐC GIA OECD NĂM 2013
Tăng đầu tư của chính phủ vào giáo dục mầm non
Từ năm 2000 đến 2010, chi tiêu trong giáo dục mầm non ở Hàn Quốc đã tăng từ 6.739 USD/trẻ, gần với mức trung bình của OECD là 6.762 USD. Việc giới thiệu chương trình hỗ trợ tài chính, hỗ trợ tiền học phí cho trẻ 5 tuổi (năm 2012) và mở rộng chương trình này cho trẻ 3,4 tuổi (năm 2013) được kỳ vọng sẽ làm tăng đều đặn tỷ lệ tổng chi tiêu từ nguồn chính phủ trong các năm tới.
HÀN QUỐC TIẾN TỚI TRỞ THÀNH QUỐC GIA TIÊN TIẾN
Hàn Quốc đang hướng tới thực sự trở thành quốc gia tiên tiến bằng cách khai thác sức mạnh quốc gia dựa trên kinh nghiệm của mình trong việc đạt được tăng trưởng kinh tế nhanh chóng và thực hiện dân chủ. Đất nước này đã trải qua hiện đại hóa và dân chủ hóa để trở thành nước tiên tiến. Trong giai đoạn đầu của sự phát triển công nghiệp trong những năm 1960, khẩu hiệu quốc gia của Hàn Quốc là “Trở thành một nước phát triển”.
CHÍNH SÁCH ĐỐI PHÓ VỚI TỶ LỆ SINH THẤP Ở HÀN QUỐC (Phần 2)
II. Chính sách đối phó và xu hướng sinh gần đây
Mặc dù chính quyền bắt đầu quan tâm tới vấn đề trên từ năm 2002, một số biện pháp chính sách được thực thi vào năm 2003 đến năm 2005, nhưng phải đến giữa năm 2006 mới đánh dấu bước ngoặt khi chính sách đối phó toàn diện đa hướng dưới cái tên Kế hoạch Cơ bản Đầu tiên với Tỷ lệ sinh thấp và Xã hội già hóa được bắt đầu. Do đó, kế hoạch này cần nhiều thời gian hơn để xác thực giá trị mà nó mang lại.
CHÍNH SÁCH ĐỐI PHÓ VỚI TỶ LỆ SINH THẤP Ở HÀN QUỐC (Phần 1)
I. Chính sách đối phó với tỷ lệ sinh thấp ở Hàn Quốc
A. Thay đổi trong chính sách dân số
Tại Hàn Quốc, chương trình kế hoạch hóa gia đình được biết đến như một phương tiện chính của chính sách kiểm soát dân số và đã được thông qua vào năm 1962. Chương trình này bao gồm các mục tiêu nhân khẩu học của việc giảm tốc độ tăng trưởng dân số hàng năm và tổng tỷ suất sinh, được thực hiện mạnh mẽ như một chương trình mang tính quyết định thông qua kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm liên tiếp.
NHIỆM VỤ CHÍNH SÁCH LAO ĐỘNG NỮ CỦA TỔNG THỐNG HÀN QUỐC (Phần 2)
3. Tăng tỷ lệ việc làm của phụ nữ như mức trung bình ở các nước OECD.
- Thực trạng hiện nay:
Theo số liệu về tỷ lệ việc làm của phụ nữ năm 2009, những người ở độ tuổi 25 ~ 29 là 65,6%, cao hơn nhiều so với các nhóm tuổi khác và cao hơn mức trung bình (63,8%) ở các nước OECD. Tuy nhiên, tỷ lệ việc làm của phụ nữ trong độ tuổi từ 30 ~ 34 chỉ là 50,1%, thấp hơn nhiều so với mức trung bình (63,4%) ở các nước OECD.
NHIỆM VỤ CHÍNH SÁCH LAO ĐỘNG NỮ CỦA TỔNG THỐNG HÀN QUỐC (Phần 1)
5 mục tiêu của chính sách:
- Giảm khoảng cách lương giữa nam và nữ như mức trung bình ở các nước OECD.
- Giảm số lượng nữ lao động không thường xuyên xuống một nửa.
- Tăng tỷ lệ việc làm của phụ nữ như mức trung bình ở các nước OECD.