Điện thoại: (04) 62730473 | Fax: (04) 62730478


HÀN QUỐC TRONG QUAN HỆ VỚI ASEAN: TỪ ĐỐI TÁC ĐỐI THOẠI ĐẾN ĐỐI TÁC TOÀN DIỆN (1991 - 2009) (Phần 3)

Đăng ngày:

4. Hàn Quốc trong quan hệ đối tác toàn diện với ASEAN (2004-2009)

Bước sang những năm đầu của thế kỷ 21, với sự thành công của hợp tác đa phương ASEAN + 3, sự hồi phục nhanh chóng sau khủng hoảng tài chính châu Á của các nước trong khu vực khiến ASEAN nổi lên như một thể chế hợp tác thành công trong khối quốc gia đang phát triển. Mặc dù xu thế hội nhập kinh tế Đông Bắc Á đang mạnh lên nhưng về chính trị – anh ninh, khu vực này vẫn là một điểm nóng bởi sự chia cắt và không tin tưởng lẫn nhau do di sản từ thời kỳ chiến tranh lạnh. Vì thế, hợp tác với ASEAN vẫn là một hướng nhằm tìm kiếm sự ủng hộ trong các vấn đề của khu vực.

Bên cạnh đó, sự trỗi dậy của Trung Quốc đã làm thay đổi căn bản vai trò của các nền kinh tế trong khu vực. Trung Quốc đã đi nhanh hơn trong việc hướng trật tự kinh tế khu vực vào mình thông qua việc đi đầu thiết lập các cơ chế đối thoại Trung Quốc – ASEAN, gia nhập Hiệp ước thân thiện và Hợp tác khu vực Đông Nam Á (TAC), Ký kết FTA Trung Quốc – ASEAN (ACFTA) năm 2002, cạnh tranh quyền chủ đạo trong hợp tác Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng (GMS) do ADB thực chất là Nhật Bản khởi xướng năm 1992....Sự chủ động thúc đẩy hội nhập với Đông Nam Á nhằm mục đích gia tăng sức mạnh cấu trúc, định hình lại kết cấu kinh tế khu vực của Trung Quốc buộc Nhật Bản và Hàn Quốc phải chạy đua với Trung Quốc trong tiến trình hợp tác với Đông Nam Á để tiến tới hội nhập Đông Á (Nguyễn Xuân Thắng. Đặng Xuân Thanh, 2013). Trước tình hình đó, Hàn Quốc nếu không muốn bị gạt ra rìa tiến trình hội nhập khu vực cần phải tích cực hơn trong việc thúc đẩy hợp tác với các nền kinh tế trong khu vực, trong đó có ASEAN.

Sau 15 năm thiết lập quan hệ, năm 2004, quan hệ Hàn Quốc – ASEAN có bước phát triển đột phá. Tháng 10. 2004, tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN – Hàn Quốc lần thứ 8 tổ chức tại Viêng Chăn, Hàn Quốc và ASEAN đã ký “Tuyên bố chung về quan hệ đối tác hợp tác toàn diện”, tạo ra bước phát triển mới trong lịch sử phát triển quan hệ hai bên. Mục đích của việc ký kết này được xác định là để củng cố quan hệ đối tác toàn diện và xác lập định hướng tương lai trong thế kỷ XXI (Nguyễn Hoàng Giáp, 2009: 121 - 122)[10].  Việc ký kết hiệp định này có ý nghĩa rất lớn trong lịch sử phát triển quan hệ Hàn Quốc – ASEAN. Tuyên bố chung này là cơ sở pháp lý cho sự phát triển quan hệ ASEAN – Hàn Quốc trong thời gian tới, đồng thời, đưa ra một chương trình nghị sự làm cơ sở cho các hoạt động hợp tác của Hàn Quốc và ASEAN trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là cho thỏa thuận xây dựng khu mậu dịch tự do ASEAN – Hàn Quốc (Nguyễn Thu Mỹ, 2008: 64 - 65). Trên cơ sở Tuyên bố chung này, Hàn Quốc và ASEAN đã tiến hành một loạt các hoạt động hợp tác song phương trên các lĩnh vực an ninh, chính trị, kinh tế và văn hóa – xã hội.

Trong lĩnh vực chính trị, các hội nghị thượng đỉnh ASEAN – Hàn Quốc được tổ chức thường xuyên song song với các cuộc họp thường niên trong khuôn khổ ASEAN + 3. Tại các Hội nghị này, các nhà lãnh đạo ASEAN và Hàn Quốc đã trao đổi quan điểm về các vấn đề khu vực và quốc tế. Trong đó, vấn đề bán đảo Triều Tiên đã được hai bên nhất trí với quan điểm cần phải giải quyết một cách hòa bình thông qua đối thoại và đàm phán. Tiến thêm một bước nữa, trong Hội nghị thượng đỉnh ASEAN – Hàn Quốc tại Cebu (tháng 1. 2007), hai bên đã có được sự nhất trí về vai trò xây dựng của ASEAN trong việc kết nối với CHDCND Triều Tiên, giúp tạo môi trường tin cậy nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho đàm phán 6 bên về vấn đề bán đảo Hàn.  Điều này cho thấy, vai trò chính trị của ASEAN đã được Hàn Quốc chú trọng. Tháng 6. 2009, một sự kiện quan trọng nữa trong quan hệ Hàn Quốc – ASEAN là Hội nghị cấp cao Hàn Quốc – ASEAN nhân dịp kỷ niệm 20 năm thiết lập quan hệ đối thoại đã được tổ chức tại đảo Jeju. Trong Hội nghị này, hai bên đã đánh giá cao quan hệ hai bên trong 20 năm qua và vạch ra định hướng thúc đẩy quan hệ trong tương lai. Trước đó, để kỷ niệm 20 năm ngày thiết lập quan hệ Hàn Quốc – ASEAN, ngày 13.3.2009, trung tâm ASEAN – Hàn Quốc chính thức ra mắt với nhiệm vụ được xác định là thực hiện các chương trình và hoạt động nhằm thúc đẩy quan hệ hợp tác và thắt chặt mối quan hệ giữa Hàn Quốc và ASEAN thông qua việc tăng khối lượng thương mại, thúc đẩy dòng vốn đầu tư, thúc đẩy du lịch và giao lưu nhân dân.[11]

Trong lĩnh vực hợp tác an ninh, tiếp tục kế thừa những thành quả của các hội nghị và diễn đàn hợp tác khu vực, Hàn Quốc tiếp tục hợp tác với ASEAN về tội phạm xuyên quốc gia trên nhiều khía cạnh từ an toàn giao thông đến trao đổi thông tin và giải quyết các hậu quả do khủng bố…thông qua các hội nghị cấp bộ ASEAN + 3 cũng như trong khuôn khổ ARF. Năm 2005, nhằm tăng cường hơn nữa sự hợp tác trong lĩnh vực này, Hàn Quốc đã đề nghị thiết lập Hội nghị các quan chức cao cấp  Hàn Quốc – ASEAN về tội phạm xuyên quốc gia và nhận được sự ủng hộ cả các nước ASEAN. Hội nghị các quan chức cao cấp  Hàn Quốc – ASEAN về tội phạm xuyên quốc gia lần đầu tiên đã được tổ chức thành công tại Bali vào tháng 6. 2006 và được hiện thực hóa thành chương trình chuyển giao tri thức về tội phạm ma túy bắt đầu ở Lào năm 2007.

Trên lĩnh vực kinh tế,  tháng 12. 2005, tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 9 diễn ra ở Kuala Lumpur, Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện Hàn Quốc – ASEAN đã được ký kết với mục tiêu chính là thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Hàn Quốc và đề ra các nguyên tắc chỉ đạo việc thực hiện tự do hóa trong trao đổi hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và xác định thời gian đàm phán nhằm thực hiện các nội dung trên. Kể từ sau Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện, các hoạt động kinh tế, thương mại giữa hai bên đã diễn ra sôi nổi. Tháng 5.2006, Hàn Quốc và 9 nước ASEAN đã kết thúc vòng đàm phán và tiến hành ký kết Hiệp định khu vực thương mại tự do ASEAN – Hàn Quốc (AKFTA). Hiệp định này chính thức có hiệu lực bắt đầu từ ngày 1.6.2007. Trên cơ sở Hiệp định khung, ngày 28.6.2006, Hàn Quốc và các nước ASEAN đã ký Hiệp định thương mại hàng hóa; ngày 20.11.2007, hai bên ký Hiệp định tự do thương mại dịch vụ và ngày 2.6.2009, hai bên đã ký Hiệp định đầu tư trong khuôn khổ Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN-Hàn Quốc. Ngoài FTA ký với ASEAN, Hàn Quốc còn tiến hành đàm phán chính thức với Singapore và hai nước đạt được thỏa thuận FTA toàn diện vào tháng 11. 2004.

Với những hoạt động sôi nổi này, thương mại giữa ASEAN và Hàn Quốc tiếp tục tăng trưởng. Tổng kim ngạch thương mại giữa ASEAN và Hàn Quốc đã tăng gấp đôi trong năm năm qua, từ 46,4 tỷ USD năm 2004 lên 90,2 tỷ USD năm 2008. Đầu tư của Hàn Quốc vào các nước ASEAN tăng mạnh từ 566 triệu đô la năm 2004 lên 3,7 tỷ đô la năm 2008[12].

Bảng 7. Tổng đầu tư của Hàn Quốc vào ASEAN (2004 - 2009)

(Đơn vị: nghìn đô la)

Năm

2004

2005

2006

2007

2008

2009

Tổng đầu tư

565.800

749.107

 

1.415.990

3.193.166

3.741.900

2.157.360

(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu Ngân hàng xuất nhập khẩu Hàn Quốc, 한국수출입은행, http://www.koreaexim.go.kr)

Đầu tư song phương giữa ASEAN và Hàn Quốc cũng tăng trưởng đều đặn trong thời gian qua, đạt 6,8 tỷ USD trong năm 2008, hơn 5 lần so với 1,3 tỷ USD năm 2004[13]. Trong Hội nghị cấp cao ASEAN – Hàn Quốc năm 2009, hai bên đã nhất trí nâng kim ngạch hai chiều lên 150 tỷ USD vào năm 2015. Hiện nay, ASEAN là đối tác thương mại lớn thứ 5 của Hàn Quốc với giá trị thương mại lên tới 53,5 tỷ USD, chiếm 9,8% kim ngạch thương mại của Hàn Quốc. Trên lĩnh vực đầu tư, Hàn Quốc trở thành nhà đầu tư lớn thứ 3 vào ASEAN, với số vốn đầu tư vào các nước ASEAN năm 2007 đạt 15,7 tỷ USD.

Trong lĩnh vực văn hóa – xã hội, đây là giai đoạn Hàn Quốc đã tài trợ cho các chương trình trao đổi chuyên gia về văn hóa, quan chức chính phủ, y tế, thanh niên… Đặc biệt chiến lược quản bá văn hoá của Hàn Quốc nhằm khuyếch trương hình ảnh Hàn Quốc tại các nước đang phát triển mạnh như Trung Quốc, Đài Loan, Mông Cổ, Việt Nam, Philippines và một số các quốc gia khác trong khối ASEAN, những quốc gia có nhiều nét tương đồng về lịch sử , văn hoá với Hàn Quốc đã đạt được nhiều kết quả tốt. Làn sóng Hàn Quốc (Hanllyu, Korean Wave) đã giúp Hàn Quốc tạo được hình ảnh trong khu vực Đông Nam Á, đồng thời là lực đẩy giúp hàng hóa Hàn Quốc xâm nhập sau hơn vào thị trường này. Năm 2005, Cơ quan Hợp tác Quốc tế Hàn Quốc (KOICA) đã thực hiện một chương trình “Xây dựng đối tác với các nước Châu Á” và chương trình hợp tác kỹ thuật đối với các nước châu Á, trong đó, có ASEAN nhằm tăng cường hiểu biết về văn hóa, chia sẻ những ý kiến và kinh nghiệm thông qua nghiên cứu về sự phát triển và thành công của Hàn Quốc. Ngoài ra, từ năm 2005, Sáng kiến đối tác văn hóa châu Á (ACPI) cũng được khởi động. Đây là dự án trao đổi tương tác giữa Hàn Quốc với các nước châu Á trên các lĩnh vực về văn hóa như chính sách văn hóa, văn hóa truyền thống, kinh doanh văn hóa, nghệ thuật đương đại....Dự án được thực hiện nhằm mục tiêu đa dạng hóa nền văn hóa, thúc đẩy tính sáng tạo và xây dựng mạng con người.

5. Một vài đánh giá

Như vậy, với thực trạng quan hệ Hàn Quốc – ASEAN sau hơn 20 năm hợp tác và phát triển, có thể tổng hợp một số đặc điểm của mối quan hệ này như sau. Trước tiên, có thể khẳng định, quan hệ Hàn Quốc – ASEAN có những chuyển biến nhanh chóng và tích cực. Điều này không chỉ được thể hiện ở số lượng các Hiệp định, thỏa thuận được ký kết trong quan hệ Hàn Quốc – ASEAN mà còn ở các lĩnh vực hợp tác và sự tăng trưởng ở quy mô hợp tác, tính chất hợp tác.

Thứ hai, quan hệ Hàn Quốc – ASEAN ban đầu xuất phát từ nhu cầu đảm bảo an ninh, nhưng phát huy hiệu quả nhất trên lĩnh vực kinh tế. Trước chiến tranh lạnh, quan hệ của Hàn Quốc với ASEAN xuất phát từ nhu cầu đảm bảo an ninh, nhưng cũng không đạt được hiệu quả thiết thực do còn chịu quá nhiều ảnh hưởng từ sự chi phối của Mỹ. Sau chiến tranh lạnh, bên cạnh nhu cầu đảm bảo an ninh và đối phó với những biến động trong tình hình khu vực và thế giới, nhu cầu hợp tác kinh tế xuất hiện trong giai đoạn Hàn Quốc tham gia tiến trình hợp tác đa phương ASEAN + 3, quan hệ hợp tác kinh tế Hàn Quốc – ASEAN có nhiều tiến triển. Vai trò và tầm quan trọng của cả hai bên đều tăng lên trong nhận thức của đối phương. Quan hệ đối tác toàn diện Hàn Quốc và ASEAN thiết lập chính là để tạo khung pháp lý và cơ sở cho nhu cầu hợp tác kinh tế đang lên cao. Tính đến thời điểm hiện nay, có thể thấy, quan hệ Hàn Quốc – ASEAN phần lớn chỉ được triển khai và đạt hiệu quả tích cực trên lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư và du lịch. Phạm vi hoạt động cũng chủ yếu được thực hiện trong cơ chế ASEAN + 1. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, lĩnh vực hợp tác giữa Hàn Quốc và ASEAN đã mở rộng sang các lĩnh vực khoa học kỹ thuật, nhân lực, tài nguyên – môi trường, văn hóa – xã hội và an ninh – chính trị.

Thứ ba, Hàn Quốc đã có những thay đổi trong chính sách đối ngoại với ASEAN để hòa vào dòng chảy của khu vực, nhưng vẫn chưa khẳng định được vai trò và vị trí của mình trong dòng chảy đó do bị phân tán bởi nhiều vấn đề nội tại. Thậm chí, nhiều lúc Hàn Quốc còn bị rơi vào tình thế bị động trong quan hệ với ASEAN trước những biến đổi của tình hình khu vực. Trong hợp tác khu vực, mặc dù có nhiều đóng góp trong việc hoạch định tầm nhìn và hướng phát triển cho ASEAN + 3 nhưng có thể thấy, Hàn Quốc không khai thác được hết những yếu tố có lợi của hợp tác đa phương khi hợp tác kinh tế mặc dù có tăng trưởng nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với các nước khác trong khu vực như Trung Quốc và Nhật Bản. Trong khi đó, vai trò cầu nối của ASEAN trong các vấn đề khu vực và bán đảo Triều Tiên vẫn không được khai thác triệt để. Bản thân ASEAN cũng chưa có những động thái tích cực và hiệu quả trong các vấn đề liên quan đến Hàn Quốc. Điều này được giải thích bởi nhiều lý do trong chính sách đối ngoại của Hàn Quốc và mức độ ảnh hưởng cũng như định hướng hoạt động của ASEAN. Xét từ phía Hàn Quốc, chính phủ Hàn Quốc bị chi phối bởi việc xác định giá trị liên kết khu vực trong quan hệ với ASEAN. Đối với Hàn Quốc, giá trị của liên kết khu vực trong quan hệ với ASEAN chủ yếu là hợp tác phát triển kinh tế nhưng mới chỉ diễn ra ở tầng cấp thấp. Tìm kiếm sự ủng hộ của hiệp hội này đối với các vấn đề của quốc gia và bán đảo được đưa ra ở các quan hệ cấp cao nhưng ASEAN lại không được Hàn Quốc xác định là thực thể quan trọng. Chính phủ Hàn Quốc khi tham gia hợp tác đa phương là muốn tìm một sự ủng hộ cho việc giải quyết các vấn đề quan hệ Nam – Bắc và vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên. Vì thế, trong thời gian đầu, Hàn Quốc là nước đóng vai trò quan trọng trong việc đề xuất ý tưởng cho việc xây dựng thể chế cũng như cơ chế hoạt động cho ASEAN + 3. Đề xuất thành lập nhóm tầm nhìn Đông Á (EAVG – East Asian Vision Group) và nhóm nghiên cứu Đông Á (EASG – East Asian ) của Tổng thống Kim Dae Jung là tiền đề cho việc thực hiện các bước đi quan trọng đối với việc xây dựng cơ chế cho hợp tác Đông Á. Tuy nhiên, với mục đích tìm sự ủng hộ từ bên ngoài cho chính sách Ánh Dương, mục đích cuối cùng của chính quyền Tổng thống Kim Dae Jung lại không phải là phát triển quan hệ hợp tác đa phương mà chú trọng nhiều hơn đến quan hệ song phương với Trung Quốc, Mỹ và CHDCND Triều Tiên. Đồng thời, vấn đề bán đảo Hàn cũng là vấn đề được chính phủ Hàn Quốc đặt ưu tiên hơn so với hợp tác khu vực (최영종,2007). Vì thế, trong giai đoạn đầu, khi Trung Quốc ký AFTA với ASEAN, Nhật Bản thể hiện sự cạnh tranh không nhỏ với Trung Quốc trong quan hệ với ASEAN thì Hàn Quốc hầu như không đạt được một thành quả nào trong thực tế.  Bên cạnh đó, do Hàn Quốc luôn coi trọng hợp tác trong khối Đông Bắc Á hơn quan hệ với Đông Nam Á, đặc là trong lĩnh vực an ninh – chính trị và xây dựng các mối quan hệ trong tiến trình liên kết khu vực nên trong khi Nhật Bản và Trung Quốc liên tục cạnh tranh vai trò chèo lái trong tiến trình hợp tác ASEAN + 3 thì Hàn Quốc xây dựng chính sách ngoại giao nước trung gian đối với hợp tác khu vực[14]. Thực hiện chính sách này, Hàn Quốc đã thể hiện sự chuyển mình tích cực từ ngoại giao bị động sang chủ động, nhưng xét trên phương diện ngoại giao nước trung gian, chính phủ Hàn Quốc đã không thực hiện được mục tiêu đề ra (최영종, 2007). Có điều này là do Nhật Bản và Trung Quốc không hào hứng với chính sách này một phần là do sự khác biệt giữa Hàn Quốc và Nhật Bản, Trung Quốc về mức độ ưu tiên trong quan hệ với ASEAN, một phần là Hàn Quốc chưa đủ sức thuyết phục về vai trò trung gian đối với các vấn đề khu vực mà chủ yếu đều có liên quan đến hai quốc gia này. Trên thực tế, ba quốc gia cũng đã có nhiều thành tựu trong việc hợp tác giải quyết các vấn đề khu vực và toàn cầu thông qua hợp tác ba bên. Đối với Nhật Bản và Trung Quốc, xu hướng chung là Hàn Quốc duy trì chính sách tích cực thúc đẩy quan hệ hợp tác. Hàn Quốc hy vọng là cầu nối cho việc giải quyết những bất đồng giữa hai nước và ngược lại, Hàn Quốc cũng hy vọng quan hệ ba bên này sẽ giúp giải quyết vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên và an ninh trên bán đảo Hàn. Tuy nhiên, mối quan hệ này dễ dàng bị tổn hại bởi những nguyên nhân lịch sử chưa được giải quyết trong quá khứ, các tranh chấp hiện tại và những lợi ích khác nhau của mỗi nước đối với Hàn Quốc cũng như bán đảo Hàn. Trong khi đó, chính sách tăng cường quan hệ với các quốc gia khác của chính phủ Hàn Quốc thời điểm này chỉ dừng lại trong khu vực Đông Bắc Á và hoàn toàn không đề cập đến ASEAN vốn là trung tâm của liên kết Đông Á. Vì thế, trong khi Trung Quốc và Nhật Bản đang tích cực tiếp cận với ASEAN thì việc không tính đến ASEAN trong chính sách đối ngoại của Tổng thống Rho Mu Hyeon được cho là một bước lùi so với chính quyền tiền nhiệm trong việc tạo động lực và tính khả thi trong việc kiến tạo liên kết với khu vực ASEAN. Sang thời kỳ của chính quyền Lee Myung Bak, chính sách đối ngoại của Hàn Quốc có những bước chuyển biến rõ rệt với cách tiếp cận thực dụng trong quan hệ với các nước trong khu vực, đặc biệt là với ASEAN. Cụ thể là hai bên đã nâng cấp quan hệ lên quan hệ đối tác toàn diện sau hơn 10 năm là đối tác đối thoại. Tuy nhiên, đối với liên kết Đông Á, ảnh hưởng và vị trí của Hàn Quốc vẫn chưa có nhiều dấu ấn. Bên cạnh đó, những động thái trong quan hệ ngoại giao của Hàn Quốc thời kỳ này đã cho thấy chính sách ngoại giao nước trung gian của Hàn Quốc có sự chuyển đổi sang là nước trung gian toàn cầu hơn là nước trung gian khu vực.

Như vậy, có thể thấy, chính phủ Hàn Quốc đã nhận thức được và có phản ứng tích cực đối với liên kết khu vực Đông Á nói chung và hợp tác ASEAN nói riêng. Tuy nhiên, trên khía cạnh hoạt động ở các phương diện hợp tác cụ thể, so với Nhật Bản và Trung Quốc, Hàn Quốc có những bước đi chậm hơn. Hiện nay, vai trò của Hàn Quốc chưa có những dấu ấn nổi bật, nhưng có thể khẳng định Hàn Quốc đã từng bước định hình được đường hướng và vai trò của mình trong quan hệ với ASEAN. Mặc dù vẫn còn nhiều vấn đề cần phải giải quyết trong quan hệ giữa các quốc gia vốn có mối quan hệ chặt chẽ trong lịch sử, nhưng với những lợi ích của mình cùng với xu thế chung của khu vực và thế giới, chính phủ Hàn Quốc đang dần chứng tỏ vai trò của mình trong khu vực và ngày càng có nhiều đóng góp vào sự phát triển chung. Việc thiết lập quan hệ với ASEAN được kỳ vọng không chỉ giúp Hàn Quốc có được sự ủng hộ trên phương diện ngoại giao để giải quyết những vấn đề liên quan đến bán đảo Hàn mà còn giúp Hàn Quốc có một thị trường thương mại và đầu tư tiềm năng. Với việc ký kết Hiệp định khu vực thương mại tự do ASEAN – Hàn Quốc năm 2006, ra Tuyên bố chung Hội nghị cấp cao kỷ niệm 20 năm thiết lập quan hệ đối thoại ASEAN – Hàn Quốc năm 2009 và thông qua Tuyên bố chung về Đối tác chiến lược vì hòa bình, thịnh vượng năm 2010, mối quan hệ này đang chuyển động theo chiều hướng hướng tới mối quan hệ đối tác thực chất và bền lâu. Điều này khẳng định vị trí quan trọng của mỗi bên trong chính sách đối ngoại của bên kia, đồng thời mở ra triển vọng phát triển mạnh mẽ hơn cho quan hệ hai bên trong thời gian tới.

 

Lê Thị Thu Giang

Trường ĐHKHXH&NV Hà Nội

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt

1. Đỗ Hoài Nam. Võ Đại Lược (2004), Hướng tới cộng đồng kinh tế Đông Á, NXB Thế giới.

2. Hoàng Khắc Nam (2008), Hợp tác đa phương ASEAN + 3 – Vấn đề và triển vọng, NXB Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh.

3. Hoàng Khắc Nam (2007), Hàn Quốc với ASEAN trong chiến tranh lạnh: Từ ASPAC tới quan hệ đối tác, Tạp chí nghiên cứu Đông Bắc Á, số 5.

4. Lê Thị Thu Giang (2014), Quan điểm và chính sách của Hàn Quốc đối với vấn đề liên kết Đông Á, Tạp chí nghiên cứu Đông Bắc Á, số 2 (156).

5. Nguyễn Hoàng Giáp (chủ biên) (2009), Hàn Quốc với khu vực Đông Á sau chiến tranh lạnh và quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc, NXB Chính trị quốc gia.

6. Nguyễn Xuân Thắng. Đặng Xuân Thanh (2013), Kinh tế, chính trị Đông Bắc Á giai đoạn 2001 – 2020, NXB Khoa học Xã hội.

7. Nguyễn Thu Mỹ (chủ biên) (2008), Một số vấn đề cơ bản về hợp tác ASEAN + 3, NXB Khoa học Xã hội.

8. Nguyễn Trần Quế (2003), 35 năm ASEAN – Hợp tác và phát triển, NXB Khoa học Xã hội.

9. Tuyên bố chung của Hội nghị cấp cao kỷ niệm 20 năm thiết lập quan hệ đối thoại ASEAN - Hàn Quốc ký kết tại đảo Jeju vào ngày 2/6/2009. www.nciec.gov.vn

10. Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Hàn Quốc (AKFTA), Văn kiện Hiệp định thương mại tự do, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam http://www.trungtamwto.vn/node/316

11. Vũ Tuyết Loan (2007), Hợp tác văn hóa đa phương Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản với ASEAN, Tạp chí nghiên cứu Đông Bắc Á, số 11.

Tài liệu tiếng Hàn

  1. 1. 김승진(1998), 한국과 ASEAN한국간 무역구조의 변화추이와 대응방향- 제조업부문을 중심으로-, 세계경제연구원.
  2. 권경덕. 정인교(2007), 한국 – ASEAN FTA 경제적 효과에 관한 연구, 한국학술정보(주).
  3. 박광섭 (2002), 한국의 對아세안 외교에 관한 연구, 논문집 (사회과학편) 제21집, p. 219 – 236.
  4. 박광섭. 이요한 (2008), 아세안과 동남아 국가연구, 大經도서출판.
  5. 박명림, 지상현 (2010), 탈냉전기 한국의 동아시아 인식과 구상김대중 사례 연구, 한국정치학회보, 제43집, 제4호.
  6. 박번순 (2009), 한국 아세안 경제협력 현황과 확대 방안, 삼성경제연규소.
  7. 손일태 (2007), 아세안의 교역구조와 동아시아지역에서의 한국의 FTA 저략, 貿易學會誌 제32권 제3호.
  8. 손혁상, 최정호 (2008), 한국의 아세안 공적개발원조(ODA)정책: ‘경제협력개발협력 이중주, 동남아시아연구 18권 2호.
  9. 최영종, 韓國政治外交史論叢 (한국정치외교사론), 동아시아 지역 통합과 한국의 중견국가 외교, 제 32집 2호, pp 189 – 225.
  10. 한국무역협회, www.kita.net
  11. 한국수출입은행, http://www.koreaexim.go.kr

Tài liệu tiếng Anh

  1. Kenneth Walz (2000), Structural Realism after the Cold War, International Security, Vol.25, No.1.
  2. Ku Su Jeong (1999), The secret tragedy of Vietnam, 273th edition of "The Hankyoreh21",  http://legacy.h21.hani.co.kr/h21/vietnam/Eng-vietnam273.html)
  3. Lee, Jaehyon (2009), Historical Review of ASEAN – Korea Relationship: Past, Present and Future, IFANS Review, Vol.17, No. 1, p39 - 57.
  4. ASEAN - Korea Center Introduction, http://www.aseankorea.org/eng.

 

 


[1] Đây là khái niệm được các nhà nghiên cứu chính trị quốc tế theo trường phái hiện thực mà đại diện là học giả Kenneth Waltz (1924 - 2013) đưa ra để chỉ tình trạng thiếu một quyền lực đứng trên các quốc gia hay tình trạng thế giới không có bất cứ hệ thống thức bậc quyền lực nào. Tình trạng vô chính phủ hay hỗn loạn là đặc điểm xác định của môi trường trong đó các quốc gia có chủ quyền có sự tác động lẫn nhau. Điều này dẫn đến việc các quôc sgia phải dựa vào suwcsmanhj, phải tìm cách duy trì và tăng cường vị thế sức mạnh và quyền lực của mình so với các quốc gia khác. Vì thế, nó thường hay đi kèm với tình trạng thiếu tin cậy giữa các quốc gia do mỗi quốc gia đều phải đối mặt với việc phải tự cứu lấy mình.

[2] Nhật Bản trở thành đối tác đối thoại của ASEAN năm 1977, Trung Quốc năm 1996.

[3] Diễn đàn khu vực ASEAN được các lãnh đạo ASEAN thống nhất thiết lập tại hội nghị Bộ trưởng ASEAN lần thứ 26 tại Singapore (tháng 7. 1993) và được chính thức khai mạc vào tháng 7. 1994 tại Băng Cốc. Diễn đàn bao gồm 25 thành viên gồm 10 nước thành viên ASEAN, 10 nước đối thoại của ASEAN (gồm Úc, Canada, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, EU, New Zealand, Nga, Mỹ, Ấn Độ), Papua New Guinea (quan sát viên ASEAN), CHDCND Triều Tiên, Mông Cổ, Pakistan, Đông Timor.

[4] 박광섭 (2002), 한국의 對아세안 외교에 관한 연구, 논문집 (사회과학편), 제21집, p. 223.

[5] Cơ sở ban đầu của hợp tác đa phương ASEAN + 3 được xem là hình thành vào năm 1990, khi thủ tướng Mahathia Mohamat của Malaysia đã đưa ra ý tưởng đầu tiên về việc thiết lập một cơ chế hợp tác giữa các nước Đông Á nhằm hình thành nên một tổ chức riêng của Đông Á. Nội dung cụ thể của ý tưởng này là hình thành Nhóm kinh tế Đông Á (EAEG) bao gồm 6 thành viên trong khu vực là ASEAN, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan và Việt Nam. Mặc dù được nhiều nước Đông Á ủng hộ nhưng ý tưởng này đã không thực hiện được do sự phản đối của Mỹ khi lo ngại tổ chức này sẽ làm giảm vai trò của Mỹ và APEC trong khu vực. Mặc dù vậy, tại Hội nghị các quan chức đặc biệt tổ chức tại Bangdung, Indonesia ngày 16.3.1991 và tại Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN (AEM) lần thứ 23 họp tại Malaysia vào tháng 10.1991, vấn đề EAEG đã được đưa ra thảo luận chính thức và EAEG đã được cải biến sang hình thức cuộc họp kín được gọi là Diễn đàn kinh tế Đông Á (EAEC). Trong Hội nghị ngoại trưởng các nước ASEAN (AMM) lần thứ 26 được tổ chức vào tháng 7.1993 đã quyết định EAEC là một diễn đàn trong APEC nhằm duy trì khuôn khổ hợp tác này. Nhưng trên thực tế, cơ chế này cũng không được thực hiện.

[6] Để tìm hiểu sự phát triển trong quan hệ kinh tế Hàn Quốc – ASEAN, cần khảo sát nhiều thông số khác như: chỉ số cạnh tranh, cơ cấu thương mại, đầu tư trực tiếp, hỗ trợ phát triển chính thức.... mới có thể có những nhận định xác đáng. Nội dung này, chúng tôi sẽ tiếp tục khai thác trong những nghiên cứu tiếp theo.

[7] Dẫn theo 권경덕. 정인교(2007), 한국 – ASEAN FTA 경제적 효과에 관한 연구, 한국학술정보(주),  p. 49

[8] Quỹ hợp tác đặc biệt ASEAN – Hàn Quốc được thành lập năm 1990.

[9] Quỹ các dự án hướng tới tương lai được thành lập năm 1997.

[10] Dẫn theo Nguyễn Hoàng Giáp (chủ biên), Hàn Quốc với khu vực Đông Á sau chiến tranh lạnh và quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc, NXB Chính trị quốc gia, 2009, tr.121 – 122.

[11] ASEAN - Korea Center Introduction. http://www.aseankorea.org/eng/page10/page12-1.asp

[12] Số liệu từ 한국수출입은행, Ngân hàng xuất nhập khẩu Hàn Quốc

[13] Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Hàn Quốc (AKFTA), Văn kiện Hiệp định thương mại tự do, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam http://www.trungtamwto.vn/node/316

[14] Chính sách ngoại giao nước trung gian được chính quyền Tổng thống Rho Mu Hyeon đưa ra với tham vọng vươn lên trở thành trở thành trung tâm khu vực Đông Bắc Á thông qua vai trò là cầu nối giữa các nước trong khu vực.


Scroll To Top