Điện thoại: (04) 62730473 | Fax: (04) 62730478


PHÂN TÍCH SO SÁNH CÁC QUAN ĐIỂM VỀ SỰ THỐNG NHẤT HAI MIỀN NAM - BẮC KOREA (phần 1)

Đăng ngày:

Sự chuẩn bị trên nhiều cấp độ sẽ được đặt ra để đạt được sự thống nhất hai miền Nam - Bắc KOREA. Nhưng, trước khi thực hiện được bất cứ điều gì, người dân ở cả hai miền phải được thuyết phục rằng họ sẽ được sống một cuộc sống tốt hơn sau khi thống nhất đất nước. Thái độ của họ sẽ là nền tảng đối với khả năng, biện pháp và quá trình lập lại mối quan hệ hữu hảo như đã thấy trong kinh nghiệm thống nhất nước Đức.

I. So sánh những kỳ vọng về thống nhất

Để hiểu những giá trị và thái độ đối với sự thống nhất hai miền Korea, nghiên cứu này so sánh và phân tích những cuộc điều tra được thực hiện bởi Gallup Korea theo yêu cầu của Viện Nghiên cứu Hoà bình và Thống nhất, Đại học Quốc gia Seoul. Các cuộc điều tra này được thực hiện từ năm 2007 đến 2011, tổng cộng là 1200 người Hàn Quốc trong độ tuổi từ 19 đến 65 và cư trú trên toàn đất nước đã trả lời. Đối với dữ liệu về Triều Tiên, 296 người Triều Tiên bỏ trốn sang định cư ở miền Nam được phỏng vấn vào năm 2008, 370 người khác được phỏng vấn năm 2009 và thêm 114 người được phỏng vấn năm 2011.

1. Mong muốn thống nhất đất nước

Lòng mong muốn thống nhất giữa hai miền Nam và Bắc khác nhau nhiều. Câu hỏi “bạn có muốn tái thống nhất đất nước không?” thì 53,7% người Hàn Quốc nói “có”, trong khi đó, 99,1% người Triều Tiên nói là “có”. Tỷ lệ phần trăm trong phạm trù “được” là 95,5% người Triều Tiên, nhưng trong số những người Hàn Quốc chỉ là 28,7%. Ở Hàn Quốc, 21,3% có quan điểm tiêu cực về sự cần thiết thống nhất đất nước và 25% là không cam kết. Trong số người miền Bắc có ít hơn 1% đã phản đối sự thống nhất và không trốn tránh câu trả lời rõ ràng. Thống nhất là một mục tiêu tự nhiên và có một mong muốn về mặt xã hội rõ ràng cho sự thống nhất ở miền Bắc.

Sự khác biệt nêu trên đã nhất quán trong nhiều năm qua. Thái độ trả lời “được”  đối với tái thống nhất ở Hàn Quốc trong năm 2008 chiếm 51,6%, năm 2009 là 55,8% và 53,7% trong năm 2011. Trong khi đó người Triều Tiên là 95,2% năm 2008, 97% năm 2009, và 99,1% trong năm 2011. Ở Hàn Quốc, cho đến những năm 1990, tỷ lệ phần trăm người dân muốn thống nhất đất nước cao hơn nhiều (lên đến 91,6%), làm giảm nỗi đau của những gia đình bị chia cắt (11%) và làm cho Hàn Quốc bình an trở lại (59%). Nhưng kể từ năm 2000, mong muốn thống nhất đất nước đã giảm ở Hàn Quốc. Trong số những người Hàn Quốc muốn tái thống nhất đã có lý do thực tế như ngăn chặn một cuộc chiến tranh (27,3%) và được xếp ngang với các nước tiên tiến (17%). Tái thống nhất là một cái gì đó mà người Triều Tiên coi là hoàn toàn cần thiết, được cho là từ tình cảm dân tộc chủ nghĩa mạnh mẽ cộng với một cảm giác không thể tránh khỏi.

Biểu đồ 1: Mong muốn thống nhất

2. Thời điểm được kỳ vọng tái thống nhất

Có một sự khác biệt lớn trong quan điểm về thời gian tái thống nhất. Hầu hết người Hàn Quốc hình dung từ 20 đến 30 năm. Trong cuộc điều tra năm 2011, có 2,5% người Hàn Quốc cho là mất 5 năm tái thống nhất và 16,3% cho rằng phải lên đến 10 năm. Những người cho rằng điều đó  xảy ra trong vòng 20 năm chiếm 26,1%, trong khi đó, 14% cho rằng tái thống nhất trong vòng 30 năm. Khoảng 19,8% đưa ra con số hơn 30 năm và 21,3% tin rằng tái thống nhất là không thể. Tóm lại, hơn một nửa số người Hàn Quốc tin rằng tái thống nhất là không thể trong vòng 20 năm tới.

Trong suốt nhiệm kỳ của tổng thống Lee Myung-bak, phần lớn người Hàn Quốc đã nghĩ rằng một chặng đường dài hơn để tái thống nhất đất nước hoặc cảm thấy điều đó là không thể. Những người có quan điểm ​​này tăng từ 13,3% năm 2007 lên 22,3% trong năm 2008, năm đầu tiên dưới nhiệm kỳ của ông Lee. Còn phía những người cho rằng "không thể" tăng lên đến 29,8% trong năm 2009 và sau đó giảm xuống còn 20,6% trong năm 2010 và 21,3% vào năm 2011. Bầu không khí này  xuất hiện phù hợp với bối cảnh một du khách Hàn Quốc bị binh sĩ Triều Tiên bắn chết tại khu nghỉ mát núi Kim Cương cuối năm 2008 và việc giam giữ các nhà chức trách Triều Tiên của nhân viên Hàn Quốc tại khu công nghiệp Kaesong. Tuy nhiên, vụ chìm tàu Cheonan của Hàn Quốc trong một cuộc tấn công vô cớ của ngư lôi Triều Tiên và vụ pháo kích đảo Yeonpyeong ở Biển Tây năm 2010, không làm tăng một cách đặt biệt sự bi quan ở Hàn Quốc về triển vọng tái thống nhất.

Biểu đồ 2: Thời điểm được kỳ vọng tái thống nhất (so sánh giữa hai miền Nam - Bắc)

 

 

Ngược lại, người Triều Tiên đã đưa ra thời điểm tương đối ngắn cho việc tái thống nhất. Cuộc điều tra năm 2011 cho thấy 18,9% tin vào tái thống nhất trong vòng 5 năm và 29,7% trong vòng 10 năm. Mặt khác, chỉ 14,4% tin tái thống nhất sẽ đến trong vòng 20 năm, 2,7% trong vòng 30 năm và 7,2% sau 30 năm hoặc hơn nữa. Người Triều Tiên (27%) tin tái thống nhất là không thể nhiều hơn so với ở Hàn Quốc là 21,3%.

Nhìn chung, trong những năm gần đây, người Triều Tiên đã cho thấy một xu hướng mở rộng triển vọng của họ cho sự tái thống nhất, thậm chí với một tỷ lệ phần trăm cao hơn cho sự không thể thực hiện được so với Hàn Quốc, có lẽ là do chịu ảnh hưởng của mối quan hệ căng thẳng kéo dài giữa hai miền. Rõ ràng rằng, những cuộc xung đột giữa miền Bắc và Nam làm tăng quan điểm tiêu cực về thống nhất đất nước.

3. Những kỳ vọng về lợi ích của sự tái thống nhất

Nhân dân hai miền đã cho thấy sự khác biệt rõ nét  những kỳ vọng của họ về lợi ích của sự thống nhất giống như lòng khát khao của họ đối với vấn đề đó. Ở Hàn Quốc, 50,7% có kỳ vọng tích cực, trong khi đó, 49,3% có quan điểm tiêu cực. Về mặt cá nhân, chỉ 27,8% tin rằng thống nhất đất nước sẽ có lợi, phần còn lại cho thấy không có lợi đối với họ.

Người Triều Tiên có những mong đợi mạnh mẽ về lợi ích của việc thống nhất. Hỏi về lợi ích từ sự thống nhất, 91,1% có câu trả lời tích cực và 8,9% là tiêu cực. Về mặt lợi ích cá nhân, 95,6% là tích cực và còn lại là tiêu cực. Trong khi đó, người Hàn Quốc tin rằng, thống nhất đất nước sẽ có lợi đối với toàn bộ tình hình hơn là đối với cá nhân, người Triều Tiên đã thấy những lợi ích to lớn cả trên cấp độ tập thể và cá nhân.

Biểu đồ 3: Những kỳ vọng về lợi ích của sự thống nhất: Cấp độ tập thể và cá nhân (2011)

Nhìn chung, người Triều Tiên mong muốn rằng thống nhất sẽ đem lại sự hỗ trợ kinh tế lớn hơn từ phía Hàn Quốc để làm giàu cho cả cá nhân và xã hội. Đối với người miền Bắc, sự thống nhất là nhiệm vụ chung cao cả mà sẽ mang lại sự thịnh vượng cho cá nhân và sự tồn vong của đất nước. Mặt khác, người Hàn Quốc tin rằng thống nhất sẽ tạo ra gánh nặng.

II. Sự nhận thức lẫn nhau giữa hai miền Nam - Bắc

1. Nhận thức của phía bên kia

Quan hệ giữa hai bên có thể chuyển từ sự thù địch sang e ngại, cạnh tranh, hợp tác và hỗ trợ. Cuộc điều tra năm 2011 đã chỉ ra rằng, cả hai miền Nam và Bắc chủ yếu coi nhau như những đối tác hợp tác ( tương ứng 47% và 50,5%). Những người xem phía bên kia như một đối thủ cạnh tranh thuộc nhóm thấp nhất (chiếm 2,3% ở miền Nam và 1,9% ở miền Bắc). Mức độ hỗ trợ, e ngại và thù địch tương ứng 16,7%; 17,2% và 16,8% ở miền Nam, và 11,4%; 21% và 15,2% ở miền Bắc.

2. Khả năng khiêu khích vũ trang

Năm 2011, có 78,3% người Hàn Quốc tin rằng, hành động khiêu khích quân sự của Triều Tiên chống lại miền Nam là có thể. Trong những năm qua, tỷ lệ người quan tâm về hành động quân sự của miền Bắc đã thay đổi từ 59,7% năm 2007 xuống 52,2% năm 2008; 63,6% năm 2009 và 67,3% trong năm 2010. Con số này đã tăng trong năm 2009 khi Triều Tiên tiến hành vụ thử hạt nhân thứ hai của mình.

Tương tự, Triều Tiên đã lo ngại sâu sắc về cuộc tấn công quân sự từ miền Nam. Những người Triều Tiên bỏ trốn được hỏi nếu họ nghĩ một cuộc tấn công từ phía miền Nam là có thể khi họ sống ở miền Bắc. Trong cuộc điều tra năm 2008, có 31,4% cho biết, họ nghĩ khả năng này là cao và năm 2009, có 39,1% cảm thấy tương tự như vậy. Mối quan tâm về hành động khiêu khích quân sự từ phía Nam tăng mạnh tới  61,1% vào năm 2011.  Triều Tiên đã tiến hành thử  hạt nhân thứ hai của mình vào ngày 25 tháng 5 năm 2009 và bí mật theo dõi “150 ngày chiến đấu”, “100 ngày chiến đấu” nhằm kiểm soát tư tưởng của người dân trong suốt cả năm. Những sự kiện này có thể làm dấy lên mối quan tâm an ninh của Triều Tiên. Ngoài ra, sự tuyên truyền của miền Bắc sau vụ chìm tàu Cheonan và vụ pháo kích đảo Yeonpyeong năm 2010 có lẽ đã làm tăng thêm mối lo ngại.

Biểu đồ 4: Sự nhận thức về khả năng tấn công quân sự từ phía bên kia

3. Đe doạ hạt nhân

Đối với kho vũ khí hạt nhân của Triều Tiên, 35,3% người Hàn Quốc cảm thấy “bị đe dọa nghiêm trọng” và 45,4% cảm thấy “bị đe dọa đáng kể”. Mức độ tổng hợp về sự lo sợ là 68,2% trong năm 2007;  61,3% năm 2008; 74,3% năm 2009; 73,8% năm 2010, và 80,7% vào năm 2011. Vụ thử hạt nhân của miền Bắc vào năm 2009 chiếm 13% điểm tăng lên năm đó và tương tự như vậy, vụ pháo kích trên đảo Yeonpyeong năm 2010 tăng 7% điểm. Những người bỏ trốn khỏi miền Bắc cũng cho biết, trong khi ở miền Bắc họ tin rằng vũ khí hạt nhân của họ phải tạo ra một mối đe dọa đối với Hàn Quốc, tỷ lệ phần trăm của những người với niềm tin như vậy vào năm 2008 là 80,7%; năm 2009 là 82,8% và năm 2011 là 89,3%. Như vậy, các số liệu chỉ ra rằng, người Triều Tiên tin vũ khí hạt nhân của họ là một mối đe dọa lớn hơn so với nhận thức của người Hàn Quốc. Nói cách khác, hầu hết người Triều Tiên tin rằng, kho vũ khí hạt nhân của họ bảo vệ họ một cách hiệu quả trước Hàn Quốc và các cường quốc khác.

Biểu đồ 5: Sự nhận thức về mối đe doạ hạt nhân của Triều Tiên

Như quan sát ở trên, sự nhận thức của Bắc và Nam khá tương đồng và đã thay đổi trong mô hình tương tự. Mặc dù các cuộc xung đột vẫn xẩy ra, song họ coi nhau như những đối tác hợp tác có thể và rất ít bên này hay bên kia xem họ đang cạnh tranh với nhau.

 

 

Người dịch: Trần Thị Duyên

Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á

Nguồn: http://www.koreafocus.or.kr/design3/essays/view.asp?volume_id=127&content_id=104245&category=G.


Scroll To Top