Điện thoại: (04) 62730473 | Fax: (04) 62730478


Tăng trưởng kinh tế ở Hàn Quốc và Nhật Bản

Đăng ngày:

9 đặc trưng của giai đoạn tăng trưởng cao ở Nhật Bản như Kosai và Orgino đã nêu ra,nhưng được sắp xếp lại cho phù hợp với mục đích nghiên cứu của chúng ta.Việc lựa chọn giai đoạn tăng trưởng nhanh của Nhật Bản(1955-1970) cho nghiên cứu của chúng ta là rất quan trọng bởi Nhật Bản đã đuổi kịp hầu hết các nước công nghiệp châu Âu trong giai đoạn này.Nhật Bản được coi như đã trở thành một nước công nghiệp tiên tiến vào năm 1970.

Trong phần này chúng ta sẽ xem xét những đặc trưng của giai đoạn tăng trưởng cao ở Hàn Quốc,có so sánh với Nhật Bản. Sự phát triển về kinh tế Hàn Quốc được đặc trưng bởi sự tăng trưởng cao liên tục trong một thời gian dài. Ở Nhật Bản,cũng như vậy ,quá trình phát triển được đặc trưng bởi tốc độ tăng trưởng cao,nhưng trong một khoảng thời gian tương đối ngắn,khoảng 15 năm ,từ năm 1955 đến năm 1970.Tuy nhiên Hàn Quốc bắt đầu tăng trưởng cao vào năm 1963 và hiện vẫn đang tiếp tục(tại thời điểm viết sách năm 1996).Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới (như trong bảng 12.7)thì tốc độ tăng trưởng GNP bình quân đầu người ở Hàn Quốc là 8,2% trong giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1993,tốc độ cao nhất trong 65 nước có mức thu nhập trung bình (1) . Điều đó vượt xa tốc độ tăng trưởng của Nhật Bản la 3,4% trong cùng thời kỳ.

Tăng trưởng cao của Hàn Quốc chỉ bị đình trệ duy nhất một lần, đó là vào năm 1980 do tình trạng bất ổn định về chính trị-xã hội sau cuộc mưu sát Tổng thống Park vào năm 1979.Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng âm (-4,8%) vào năm này,tình trạng xấu kể từ vụ thu hoạch tồi tệ nhất vào năm 1963 và cuộc tăng giá dầu lửa lần thứ 2.Ngoại trừ năm 1980,tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc vượt hơn 5% mỗi năm trong suốt giai đoạn này,tốc độ tăng trưởng cao nhất vượt qua cả tốc độ tối đa của Nhật Bản. Sở dĩ tốc độ tăng trưởng bình quân cao hơn ở Nhật Bản trong giai đoạn tăng trưởng nhanh do Nhật Bản không phải trải qua thời kỳ trì trệ và trên thực tế tăng trưởng được thúc đẩy ở Nhật Bản trong giai đoạn này. Hệ số vốn,tỷ lệ vốn sản lượng hay yêu cầu về vốn trên một đơn vị sản lượng được duy trì thấp ở Nhật Bản trong suốt những năm tăng trưởng cao,nhưng ở Hàn Quốc thì hệ số vốn lại gia tăng. Ở Nhật Bản ,sự gia tăng về hệ số vốn được bù đắp bởi việc tăng năng suất nhằm giữ cho hệ số vốn thấp.

Trong trường hợp Hàn Quốc thì đầu tư quá mức cho ngành công nghiệp nặng cần nhiều vốn vào cuối những năm 70 và năng suất tăng tương đối chậm trong những ngành công nghiệp này trong năm suy thoái 1980 đã làm cho hệ số vốn tăng.Nhưng sự gia tăng nhanh chóng của hệ số vốn ở Hàn Quốc sau năm 1989 chủ yếu là do đầu tư quy mô lớn của các công ty Hàn Quốc nhằm thay thế lao động có mức tiền lương cao bằng các thiết bị sản xuất.Tiền lương của Hàn Quốc bắt đầu tăng nhanh chóng từ năm 1987 bởi sự cam kết về dân chủ hoá của Roh Tae-Woo vào ngày 29 tháng 6. Thực hiện: Mai Liên Biên tập: nhóm website


Scroll To Top